Hàng Việt ngày càng lan tỏa ở nhiều thị trường
Ông Phạm Thành Kiên, Giám đốc Sở Công Thương TP. Hồ Chí Minh cho biết, các mặt hàng nông phẩm gồm lương thực, thực phẩm và đồ uống của thành phố hiện chiếm tỷ trọng 19,15% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Chỉ số IIP năm 2018 tăng 7,36%, cao hơn mức tăng năm 2017 (tăng 3,89%). Trong đó, hai nhóm sản phẩm chủ lực là thực phẩm chế biến tăng 8,91%, cùng kỳ tăng 4,6% và đồ uống ước tăng 4,67%, cùng kỳ tăng 3,09%.
Ngành lương thực, thực phẩm có 5.515 cơ sở sản xuất, trong đó 1.976 DN đang hoạt động trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Theo ông Kiên, các DN trong ngành đã có sự chuyển đổi đầu tư sản xuất theo nhu cầu của thị trường. Doanh thu bán lẻ các mặt hàng thực phẩm và đồ uống chiếm 17% tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa trên địa bàn và đạt mức tăng trưởng ngày càng cao.
Thực phẩm, đồ uống hiện đang chiếm tỉ lệ cao nhất trong cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng Việt (chiếm khoảng 35% mức chi tiêu), đây là cơ hội và là động lực để các DN mạnh dạn đẩy mạnh đầu tư, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu qua hơn 100 quốc gia.
Bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (FFA) cho biết, nắm bắt được tiềm năng và xu hướng phát triển của ngành thực phẩm, chính quyền thành phố đã triển khai nhiều chính sách cụ thể để hỗ trợ DN, triển khai Chương trình hợp tác hàng năm giữa FFA với các nhà lãnh đạo thành phố, kết nối ngân hàng, tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo chuyên đề, xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các DN thuộc ngành lương thực thực phẩm của thành phố không ngừng lớn mạnh, nhiều DN đã đầu tư thêm thiết bị công nghệ cao để sản xuất ra các mặt hàng chất lượng, không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu.
![]() |
Các sản phẩm thủy hải sản của Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng nhiều quốc gia ưu chuộng |
DN cần tiếp sức để đưa hàng Việt đi xa
Theo bà Lê Thị Thanh Lâm, Phó Tổng giám đốc Công ty CP Sài Gòn Food, doanh thu nội địa của công ty chiếm 40%, xuất khẩu 60%, trong đó có 50 mặt hàng xuất đi thị trường Nhật Bản. Năm 2018, doanh thu đạt 1.900 tỷ đồng, tăng 130% so với năm trước và đặt mục tiêu tăng 50% doanh thu, sản lượng trong năm nay. “Dòng sản phẩm cháo tươi của Sài Gòn Food hiện đã được chọn là sản phẩm chủ lực của TP. Hồ Chí Minh. Đây là động lực để chúng tôi phát triển nghiên cứu sản xuất các dòng sản phẩm mới, an toàn, tiện lợi, đủ sức cạnh tranh với thị trường và nâng tầm sản phẩm Việt trên thương trường quốc tế”, bà Lâm chia sẻ.
Đại diện Công ty CP Thực phẩm dinh dưỡng Nutifood cho hay, năm 2018 Nutifood là DN đầu tiên của Việt Nam và châu Á đã hợp tác với đối tác Hoa Kỳ xuất khẩu bột sữa pha sẵn dinh dưỡng đặc trị biếng ăn sang thị trường Hoa Kỳ và đang đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm sữa các loại sang Nhật, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Lào, Myanmar… Công ty còn hợp tác với Backahill, tập đoàn của Thụy Điển để sản xuất sữa organic tại nước này nhằm cung cấp cho thị trường châu Âu. Để hàng Việt có mặt ở nhiều thị trường trên thế giới, đại diện Nutifood đề xuất, các cơ quan hữu quan của thành phố cần tổ chức và hỗ trợ DN nhiều hơn về các chương trình kết nối, xúc tiến thương mại quốc tế, nhất là các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, châu Âu, châu Mỹ.
Ông Trương Tiến Dũng, Tổng giám đốc Công ty CP Kinh doanh thủy hải sản Sài Gòn kiêm Phó Chủ tịch FFA cho rằng, hàng nghìn sản phẩm lương thực, thực phẩm của các DN thành phố sản xuất hiện đang được tiêu thụ mạnh trên 100 quốc gia, trong đó có những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Hiện tại, hàng nghìn DN hội viên của FFA đủ năng lực để đáp ứng cho thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để sản phẩm Việt xuất đi với số lượng lớn và phát triển bền vững thì rất cần những chính sách hỗ trợ về tài chính, chuyển đổi công nghệ, quy trình hiện đại trong nuôi trồng, chế biến để tạo ra những mặt hàng chất lượng cao, an toàn vệ sinh, có truy xuất nguồn gốc.
Theo các DN, ngành lương thực thực phẩm của thành phố có sự phát triển tương đối tốt nhưng vẫn còn chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng vốn có. Nhiều DN sản xuất hiện nay còn phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, còn hạn chế về thiết bị, công nghệ, giá thành, sức cạnh tranh và hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm, hàng hóa còn thấp. Đại diện một DN sản xuất các loại bột và mì tôm xuất khẩu cho rằng, chi phí đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn thành phố có xu hướng gia tăng, quỹ đất ngày càng bị thu hẹp làm cho giá thuê đất ngày càng tăng dẫn đến chi phí đầu tư cho phát triển công nghiệp ngày càng lớn. Vì vậy, các DN nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố khó tiếp cận mặt bằng sản xuất phù hợp trong các khu công nghiệp để đầu tư, mở rộng sản xuất.