![]() |
Cần cân nhắc thận trọng khi đưa thêm sản phẩm sữa khác vào sữa học đường |
Dư địa phát triển còn lớn
Theo số liệu của Cục Chăn nuôi, năm 2017, tổng đàn bò sữa cả nước đạt 302 ngàn con, sản lượng sữa đạt 881 tấn, đáp ứng khoảng 40% nhu cầu trong nước. Doanh thu của ngành sữa đạt trên 100.000 tỷ đồng, tương đương trên 4 tỷ USD. Sữa của Việt Nam cũng đã được xuất khẩu, riêng sản phẩm của Vinamilk đã xuất khẩu sang 36 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt kim ngạch hơn 300 triệu USD.
Ông Tống Xuân Chinh nhận định: Triển vọng phát triển của ngành chế biến sữa tươi trong nước lớn khi Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ công nghiệp hóa ngành sữa hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong nước mới đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu tiêu dùng sữa, vì vậy, dư địa phát triển còn lớn.
Năm 2018, dự kiến, sản lượng sữa nguyên liệu đạt trên 960.000 tấn, chỉ tiêu đến năm 2020 là 1 triệu tấn trong Chiến lược phát triển chăn nuôi đến 2020 là hoàn toàn có thể đạt được nhờ năng lực sản xuất của các nông hộ, doanh nghiệp ngày càng cao do áp dụng những tiến bộ công nghệ về giống, thức ăn, chăm sóc, nuôi dưỡng và chuồng trại.
![]() |
Năm 2018, dự kiến sản lượng sữa nguyên liệu đạt trên 960.000 tấn |
Các doanh nghiệp đáp ứng được nguồn sữa tươi trong nước
Liên quan đến thông tin nguồn sữa tươi trong nước có đáp ứng đủ nhu cầu của Chương trình Sữa học đường, Cục Chăn nuôi đã ước tính về nhu cầu của Chương trình Sữa học đường cũng như khả năng cung ứng của ngành chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa trong nước. Theo đó, với nhu cầu mỗi học sinh sử dụng 200ml sữa/ngày nhân với 260 ngày đến lớp nhân với khoảng 11 triệu học sinh (mẫu giáo đến lớp 6) thì sản lượng sữa cần cho chương trình Sữa học đường khoảng 587.000 tấn, tương đương 22.000 tỷ đồng.
Trong khi đó, sản lượng sữa năm 2018 đã đạt khoảng 960.000 tấn, vì vậy, nhu cầu sữa tươi nguyên liệu chế biến cho Chương trình Sữa học đường tại các doanh nghiệp hoàn toàn có thể đáp ứng được.
“Hiện nay, các nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh như Mỹ, Úc, châu Âu tiêu thụ 100% sữa lỏng được chế biến từ sữa tươi, trong khi Việt Nam mới đáp ứng được 40%. Vì vậy, ưu tiên phát triển đàn bò sữa, đi kèm với các dịch vụ cho chăn nuôi nuôi bò sữa để hạn chế sự phụ thuộc nhập khẩu vẫn là ưu tiên hàng đầu, cũng là cách để trẻ em Việt Nam được tiếp cận với nguồn thức uống giàu dinh dưỡng của đất nước ta”, ông Tông Xuân Chinh cho biết.
Liên quan đến việc Bộ Y tế vừa có văn bản đề nghị Chính phủ cho phép các sản phẩm sữa dạng lỏng khác ngoài sữa tươi được tham gia Chương trình Sữa học đường, ông Tống Xuân Chinh nêu quan điểm, Chương trình Sữa học đường được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1340/QĐ-TTg ngày 8/7/2016 đã yêu cầu phải sử dụng sữa có nguồn gốc 100% từ sữa tươi nguyên liệu. Việc Bộ Y tế đề xuất đưa thêm các sản phẩm sữa khác, ngoài sữa tươi vào chương trình như sữa bột hoàn nguyên cần có sự cân nhắc thận trọng, để trẻ em, học sinh được uống sản phẩm sữa tươi thanh trùng, tiệt trùng chất lượng.
Với năng lực chăn nuôi bò sữa và chế biến hiện nay, ngành sữa hoàn toàn có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng sữa lỏng của Chương trình Sữa học đường mà chưa cần bổ sung thêm các loại sữa bột khác.
Về mặt khoa học, khi so sánh hai loại sữa tươi và sữa bột hoàn nguyên cũng có sự khác nhau nhất định. Theo đó, sữa lỏng từ 100% sữa tươi nguyên liệu vẫn còn giữ lại được những hoạt chất sinh học, enzym có lợi cho cơ thể. Trong khi đó, những chất này trong sữa bột hoàn nguyên có thể mất đi do điều kiện trong quá trình chế biến thành sữa khô.
Để Chương trình Sữa học đường triển khai hiệu quả, để trẻ em mọi vùng miền được tiếp cận với thức uống giàu dinh dưỡng, ông Chinh cho rằng, cần áp dụng Chương trình một cách linh hoạt, tùy điều kiện địa phương.
Ví dụ, ở vùng đồng bằng, đô thị, lưu thông thuận tiện, có điều kiện bảo quản có thể dùng sữa tươi 100% thanh trùng, nhưng ở miền núi vận chuyển xa xôi thì dùng sữa tươi 100% tiệt trùng để đảm bảo điều kiện bảo quản. Về hỗ trợ, ở thành thị, trẻ em vốn đã được tiếp xúc với nhiều sản phẩm sữa thì áp dụng không hỗ trợ, ở vùng đồng bằng có thể kêu gọi các doanh nghiệp hỗ trợ một phần nhưng ở miền núi thì phải có tài trợ toàn bộ từ Trung ương, địa phương, khu vực kinh tế tư nhân.
Ngoài ra, cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm từ sữa khác ngoài sữa lỏng để trẻ em có nhiều sự lựa chọn, miễn là từ sữa như pho mát, sữa chua, váng sữa, pizza có pho mát… Nước ta cũng cần quy định hàm lượng đường Saccharose trong các sản phẩm sữa để đảm bảo sức khỏe cho trẻ, giảm nguy cơ bệnh tật do ăn uống quá nhiều đường.
Bên cạnh đó, hiện nay, bình quân tiêu thụ sữa quy đổi tính trên đầu người ở Việt Nam vẫn còn thấp, mới đạt 28kg/người/năm. Vì vậy, để nâng cao thể chất, tầm vóc, trí tuệ của trẻ, việc đầu tư phát triển ngành chăn nuôi bò sữa theo hướng đẩy mạnh liên kết sản xuất của nông hộ với các doanh nghiệp chế biến sữa, áp dụng công nghệ vào các khâu trong chuỗi giá trị sản phẩm sữa, mở rộng quy mô đàn bò, để tăng năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm tiến tới giảm phụ thuộc vào các nguồn sữa nhập khẩu là ưu tiên hàng đầu trong Đề án tái cơ cấu chăn nuôi.
Trước đó, ngày 17/9/2018, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long đã có Văn bản gửi Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu rõ: Hiện, Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo Quyết định của Bộ Y tế về việc quy định sản phẩm sữa tươi phục vụ chương trình Sữa học đường. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, Bộ Y tế nhận thấy Quyết định số 1340/QĐ-TTg quy định Bộ Y tế có trách nhiệm “xây dựng và ban hành các quy định về sản phẩm sữa tươi phục vụ chương trình Sữa học đường” mà không có quy định nào hạn chế các sản phẩm sữa khác tham gia chương trình. Việc ban hành quy định chỉ đối với sản phẩm sữa tươi sẽ dẫn tới việc hạn chế sự lựa chọn các loại sữa khác trong khi các sản phẩm sữa khác vẫn đáp ứng mục tiêu dinh dưỡng của chương trình Sữa học đường, tạo rào cản cho doanh nghiệp, chỉ có doanh nghiệp sản xuất, cung cấp sữa tươi mới có thể tham gia chương trình... Trên cơ sở đó, Bộ Y tế đề nghị ngoài sản phẩm sữa tươi các sản phẩm sữa dạng lỏng khác cũng được tham gia chương trình Sữa học đường để đảm bảo trẻ em được sử dụng đa dạng các sản phẩm sữa khác, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và sự tham gia bình đẳng của doanh nghiệp. |