Đây là diễn đàn trao đổi mở giữa phóng viên - báo chí trong nước với các nhà khoa học, các chuyên gia đến từ Việt Nam, Hoa Kỳ, châu Âu về tầm quan trọng của việc áp dụng nguyên tắc khoa học trong quy trình đánh giá an toàn thực phẩm (ATTP) cũng như khoảng cách giữa các chủ đề về khoa học với truyền thông đại chúng cũng như nhận thức hiện tại của công chúng về vấn đề này. Qua đó khẳng định vai trò của công tác báo chí – truyền thông trong việc định hướng thông tin một cách chính xác và có trách nhiệm.
![]() |
Ông Hồ Quang Lợi - Phó Chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam |
Phát biểu tại hội thảo, ông Hồ Quang Lợi – Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam - nhấn mạnh: ATTP là vấn đề được Chính phủ, cộng đồng xã hội đặc biệt quan tâm. Báo chí đã giúp công chúng ngày càng ý thức hơn tới quy trình sản xuất, cách thức tạo ra thực phẩm họ tiêu dùng hàng ngày và đề cao vấn đề an toàn và dinh dưỡng. Bên cạnh đó, những lo ngại về ATTP cũng là đề tài thu hút, rất dễ bị khai thác và “cường điệu hoá”. Điều đó cho thấy trách nhiệm của báo chí trong việc cung cấp thông tin một cách khoa học, đầy đủ ngày càng trở nên quan trọng, giúp công chúng có kiến thức trước khi đưa ra những lựa chọn tiêu dùng thông minh.
Tiến sĩ Trần Bá Dung - Hội Nhà báo Việt Nam - nêu những bất cập của truyền thông về khoa học nói chung, truyền thông về ATTP nói riêng. Đáng chú ý, chất lượng thông tin về khoa học và công nghệ (KHCN) trên báo chí chưa cao. Thông tin sai lệch hoặc thiếu chính xác về khoa học và công nghệ, nhất là về ATTP. Ông Trần Bá Dung nhận định, cần nâng cao tính chuyên nghiệp của báo chí về khoa học và công nghệ, đưa tin về lĩnh vực khoa học và công nghệ, ATTP cần chính xác, cụ thể, kịp thời, có phân tích, có định hướng. Đặc biệt, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, kiến thức KHCN cho các nhà báo viết về KHCN, ATTP. Coi trọng đạo đức nghề nghiệp trong đưa tin KHCN, ATTP.
Bài trình bày của tiến sỹ Jason Sandahl - Chuyên viên kỹ thuật về ATTP, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ - đã cung cấp các vấn đề lý thuyết về các nguyên tắc đánh giá ATTP đối với sản phẩm nông nghiệp đầu vào như thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân tích một số thông tin nhiễu liên quan tới tính an toàn của các sản phẩm này... Theo tiến sĩ, thiếu sót trong việc cung cấp thông tin đầy đủ tới công chúng về những tiêu chí đánh giá đã đẩy cao lo lắng của công chúng và dẫn tới những hiểu lầm rằng “thuốc BVTV là không an toàn”. Ông cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết của việc sử dụng các giải pháp BVTV tiên tiến, nhằm đảm bảo đủ lương thực cho dân số toàn cầu như hiện nay. Vấn đề mấu chốt là cần có một nền tảng pháp lý chuẩn khoa học và có sự tham gia của nhiều bên trong việc thực thi các phương thức thực hành nông nghiệp bền vững.
Nhìn nhận vấn đề cụ thể tại Việt Nam, tiến sỹ Đào Xuân Cường – Giám đốc Quỹ Syngenta Foundation, đại diện Hiệp hội CropLife Việt Nam - cho biết, tại Việt Nam, 24,5 triệu hộ nông dân nhỏ phụ thuộc vào các giải pháp BVTV để ngăn ngừa dịch hại và áp lực cỏ dại gây hại cho cây trồng làm giảm năng suất khi thu hoạch. Tuy nhiên, lạm dụng sử dụng quá liều các vật tư nông nghiệp đầu vào như thuốc BVTV và phân bón hoá học. Việc nhập khẩu thiếu kiểm soát và sai luật các sản phẩm kém chất lượng, thiếu truy xuất nguồn gốc cũng là các yếu tố khác ảnh hưởng tới ATTP, nhưng thách thức lớn nhất nằm ở việc thay đổi thói quen canh tác của đại đa số nông hộ nhỏ trong nước.
Bên cạnh việc tổ chức các chương trình hướng dẫn nông dân sử dụng có trách nhiệm các sản phẩm thuốc BVTV, ông Đào Xuân Cường cho rằng, công tác truyền thông hướng tới nông dân cần được đẩy mạnh hơn nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của họ trong chuỗi sản xuất nông nghiệp an toàn và các tác động tiêu cực nếu sử dụng sai quy cách và hướng dẫn. Đồng thời, cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hài hoà hoá các khung đánh giá pháp lý đối với các sản phẩm thuốc BVTV.
Giáo sư David Zaruk – Đại học Odisee (Vương quốc Bỉ), người có hơn 20 năm nghiên cứu về truyền thông đối với các vấn đề khoa học - đã đưa ra các ví dụ minh họa về tác động của truyền thông trong việc đẩy cao cảm xúc của công chúng một cách có chủ đích hướng tới các mục tiêu thương mại hơn là nhìn nhận bản chất khoa học của vấn đề đó. “Giới truyền thông làm việc trong một môi trường có tính phản ứng cao. Tuy nhiên cần nhìn nhận rõ rằng 80% công chúng gần như không có quan điểm rõ ràng. Với sự bùng nổ của mạng xã hội và tính tương tác ngày càng cao trong môi trường giao tiếp hiện nay, các kênh truyền thông chính thống muốn giữ mức độ tín nhiệm với công chúng cần đơn giản hoá thông điệp, đối chiếu thông tin thường xuyên hơn với các nhà khoa học và hạn chế suy luận cảm tính\" - Giáo sư David Zaruk nhấn mạnh.