Nhịp cầu kinh tế hữu nghị EU - Việt Nam (Bài 2)

Đặt kỳ vọng vào Dự án không phải là khiên cưỡng, huyễn hoặc vì phù hợp với mong muốn của hai bên trước thời vận mới.

Bài 2: Kỳ vọng từ Dự án EU-MUTRAP

\"\"
Từ năm 2012 - 2014, xuất khẩu của Việt Nam đều tăng trưởng vượt mức và luôn xuất siêu -  Ảnh: Hà Ninh

Thời vận mới

Đến nay theo hành trình, Dự án đã hoạt động được 3 năm, trùng khớp với 4 năm Việt Nam bắt đầu triển khai Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020, trong đó giai đoạn đầu là Kế hoạch 5 năm 2011- 2015. Trong quãng thời gian ngắn ấy là “dư chấn” của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, gây nên những biến động khó lường. Ở trong nước, những khó khăn chủ quan, cố hữu chưa thể khắc phục một sớm một chiều, song do kiên trì mục tiêu tiếp tục đổi mới và được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, trong đó có EU, trong ba năm (2012 -2014), kinh tế - xã hội của Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, GDP hàng năm đều tăng, kinh tế vĩ mô phát triển trong thế ổn định.

Đầu tư nước ngoài khẳng định vai trò

Việc thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) sau khi đạt đỉnh vào năm 2008 là 62,7 tỷ USD, những năm gần đây dù có khó khăn nội tại của các nhà ĐTNN, song bức tranh ĐTNN vào Việt Nam vẫn có những điểm sáng. 

Cho đến nay, qua hơn 1/4 thế kỷ, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” về ĐTNN. Khu vực Đông Nam bộ thu hút được nhiều nhất - càng tạo sức bật mới cho khu vực năng động với đầu tầu tăng trưởng là TP.Hồ Chí Minh. ĐTNN không những tác động trực tiếp đến các lĩnh vực, địa bàn, đối tượng lao động được đầu tư, mà còn lan tỏa sang các lĩnh vực liên đới, địa bàn lân cận, lực lượng lao động khác. Tính chung trong hơn 26 năm qua, đóng góp của ĐTNN đối với kinh tế Việt Nam chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; 45% giá trị sản xuất; 65% giá trị xuất khẩu (XK), tạo ra xuất siêu; 20% GDP (tăng từ 2% trong năm 1992); 20% thu ngân sách.

Xuất khẩu: Lối ra của nền kinh tế

Hội nhập và ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường XK với mức tăng trưởng hàng năm là 18%, qua đó tạo công ăn, việc làm, tăng trưởng kinh tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Từ năm 2012 - 2014, XK năm nào cũng tăng trưởng vượt mức và luôn xuất siêu. Năm 2014, lần đầu tiên kim ngạch cán mốc 150 tỷ USD - chỉ mất 3 năm từ mốc 100  tỷ USD vươn tới đỉnh này; bằng 3,1 lần kim ngạch năm 2007 - năm Việt Nam gia nhập WTO. Nhờ vậy, tạo nên sự đổi chiều trong cán cân thương mại. Năm 2014, kim ngạch xuất siêu lớn hơn tổng kim ngạch xuất siêu của hai năm 2012 - 2013 cộng lại.

XK gạo cùng với một số nông lâm sản phẩm khác duy trì vị trí cao trên thị trường thế giới. Hai mặt hàng là điện thoại và dệt may vượt mốc 20 tỷ USD, tương đương với tổng kim ngạch XK của cả nước năm 2003. XK sang EU năm 2014 đạt 27,9 tỷ USD, tăng 14,7% (XK của cả nước tăng 13,6%), vượt 1,2 tỷ USD so với tổng kim ngạch XK năm 2004; Việt Nam xuất siêu sang EU 19 tỷ USD. Tuy còn có những thị trường Việt Nam nhập siêu, song cũng có nhiều thị trường Việt Nam xuất siêu làm đối trọng, trong đó có EU là đối trọng lớn. Từ tình thế mới, nếu kiên trì thực hiện những biện pháp căn cơ, không có biến động bất ngờ, hy vọng “đích” cân bằng XK-NK sẽ “cán” sớm hơn hạn định là năm 2020.   

Giảm nghèo bền vững

Kiên trì chủ trương giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động hiệu quả: Huy động các nguồn lực cho công tác giảm nghèo và thực hiện lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Thực hiện các nhóm giải pháp quan trọng như tập trung hỗ trợ  sản xuất trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc; giao đất, giao rừng cho người dân gắn với phát triển và bảo vệ rừng, điều chỉnh các chính sách về giữ rừng, bảo vệ rừng. Hỗ trợ lương thực, giống, khuyến nông, đào tạo nghề, lãi suất cho vay phát triển sản xuất; hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn khó khăn và thu hút lao động tại chỗ gắn với hỗ trợ đào tạo nghề thông qua doanh nghiệp. Tăng hỗ trợ tín dụng chính sách. Hỗ trợ thụ hưởng các dịch vụ xã hội… nên việc giảm nghèo có kết quả tích cực. Tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 1,8-2%/năm (từ 7,8% xuống còn 5,8-6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm (từ 38,2% năm 2013 xuống còn 33,2% năm 2014).

Những thành công của Việt Nam qua các trụ cột kinh tế - xã hội nói trên đã duy trì là nước có mức thu nhập trung bình, là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong việc mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) do Liên Hiệp quốc phát động. 

Thêm giải pháp để Dự án đạt kết quả cao hơn

Triển khai trong bối cảnh ngày càng có sắc thái mới bằng sự chuyển động của kinh tế Việt Nam đang tận dụng thời cơ do hội nhập mang lại, từng bước vượt qua thách thức cũng do chính hội nhập đặt ra, càng làm tăng tính hấp dẫn, thiết thực của Dự án. Có thể bổ sung các giải pháp làm tô đậm các kết quả đã đạt được:

Một là, hỗ trợ quá trình đàm phán, nhất là trong bước quyết định đi tới ký kết các Hiệp định FTA, về kinh nghiệm, về năng lực của đội ngũ tham gia đàm phán và tư vấn để đạt được những thỏa thuận vừa theo thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với đặc thù của Việt Nam, đảm bảo lợi ích quốc gia. Đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội, nhất là các doanh nghiệp về bước mới của tiến trình hội nhập.

Dựa trên những giải pháp đề xuất thêm, phía EU có thể tăng hàm lượng hỗ trợ về mọi mặt, bằng phương pháp thích hợp với bước đi linh hoạt; phía Việt Nam sẽ nâng cao khả năng đối ứng, tiếp nhận và chuyển hóa sự hỗ trợ vào “cơ thể kinh tế” của mình khi triển khai Dự án và phát huy sau khi Dự án kết thúc.

Hai là, có sự chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt như cải cách thể chế, đổi mới điều hành, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, tận dụng được những thuận lợi do các Hiệp định FTA tạo ra, không bị bất ngờ, sẵn sàng hóa giải những khó khăn cũng từ chính sự kiện đó mà có. Bồi dưỡng lực lượng soạn thảo chiến lược, hoạch định chính sách, năng lực điều hành và kỹ năng của doanh nghiệp.   

Ba là, tiếp tục hỗ trợ khi bắt tay vào thực hiện những cam kết đã ký các Hiệp định FTA. Đón làn sóng đầu tư mới, xây dựng nền móng Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp cận với nền văn minh công nghiệp châu Âu. Nâng quan hệ thương mại với thị trường các châu lục, trong đó thị trường EU lên có tầm cao mới. Tăng cường “sức khỏe” cho các doanh nghiệp, cạnh tranh khi “mang chuông đi đấm  xứ người”, nhưng không bị lép vế ở “sân nhà” khi phải mở cửa thị trường nội địa, trước mắt là khi hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào ngày 31/12/2015. 

Hy vọng thời điểm kết thúc Dự án - năm 2018 - sẽ là dấu mốc mới Việt Nam hoàn thành tốt cuộc “tổng diễn tập” với hành trang vững chắc, tự tin hành tiến trên đại lộ hội nhập và phát triển toàn cầu.

TIN LIÊN QUAN
Nhịp cầu kinh tế hữu nghị EU - Việt Nam (Bài 1)
Nguyễn Duy Nghĩa
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận